Cây nêu trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam có đặc điểm khá đa dạng tùy thuộc địa phương,
phong tục, dân tộc, giai cấp xã hội v.v.
Cu kêu ba tiếng cu kêu
Trông mau đến Tết dựng nêu ăn chè…
Ngày xưa, cứ đến chiều 23
tháng chạp âm lịch, mọi nhà đều dựng nêu, đón Tết. Đối với người dân Việt Nam,
hình ảnh cây nêu ngày Tết được coi là biểu tượng văn hóa thiêng liêng nhất. Cây
nêu gắn liền với một sự tích huyền thoại thấm đẩm tính nhân văn sâu sắc.
Trong Kho tàng truyện cổ tích Việt
Nam của Nguyễn
Đổng Chi: Ngày xưa Quỷ chiếm
toàn bộ đất nước, còn Người chỉ làm thuê, và nộp phần lớn lúa thu hoạch cho
Quỷ. Quỷ ngày càng bóc lột Người quá tay, và cuối cùng Quỷ tự cho mình hưởng
quyền "ăn ngọn cho gốc". Người chỉ được hưởng rạ, tuyệt đường sinh
nhai nên cầu cứu Đức Phật giúp đỡ. Phật bảo Người đừng trồng lúa mà trồng khoai
lang. Mùa thu hoạch ấy, Người được hưởng không biết bao nhiêu củ khoai, còn Quỷ
chỉ hưởng lá và dây khoai, đúng theo phương thức “ăn ngọn cho gốc”.
Sang mùa khác, Quỷ
lại chuyển qua phương thức "ăn gốc cho ngọn". Phật bảo Người lại
chuyển sang trồng lúa. Kết quả Quỷ lại hỏng ăn. Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau
chúng nó tuyên bố "ăn cả gốc lẫn ngọn". Phật trao cho Người giống cây
ngô (bắp) để gieo khắp nơi. Quỷ lại không được gì, còn Người thì thu hoạch cơ
man là trái ngô. Cuối cùng Quỷ nhất định bắt Người phải trả lại tất cả ruộng
đất không cho làm rẽ nữa.
Phật bàn với Người
điều đình với Quỷ, xin miếng đất bằng bóng chiếc áo cà sa treo trên ngọn cây
tre. Quỷ thấy không thiệt hại gì nên đồng ý. Khi đó Phật dùng phép thuật để
bóng chiếc áo cà sa đó che phủ toàn bộ đất đai khiến Quỷ mất đất phải chạy ra
biển Đông.
Do mất đất sống nên
Quỷ huy động quân vào cướp lại. Trận đánh này bên Quỷ bị thua sau khi bị bên
Người tấn công bằng máu chó, lá dứa, tỏi, vôi bột... và Quỷ lại bị Phật đày ra
biển Đông. Trước khi đi, Quỷ xin Phật thương tình cho phép một năm được vài ba
ngày vào đất liền viếng thăm phần mộ của tổ tiên cha ông. Phật thương hại nên
hứa cho.
Do đó, hàng năm, cứ
vào dịp Tết Nguyên đán là những ngày Quỷ vào thăm đất liền và người ta theo tục
cũ trồng cây nêu để Quỷ không bén mảng đến chỗ Người cư ngụ. Trên nêu có treo
khánh đất, có tiếng động phát ra khi gió rung để nhắc nhở bọn Quỷ nghe mà
tránh. Trên ngọn cây nêu còn buộc một cành đa mới hái để cho Quỷ sợ.
Ngoài ra, người ta còn tùy phong tục người ta vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn
về phía đông và rắc vôi bột xuống đất trước cửa ra vào trong những ngày Tết …để
cấm cửa Quỷ.
Như vậy, trong truyền
thuyết, cổ tích dân gian Việt Nam đã lý giải tại sao ngày Tết phải trồng cây
nêu, phải treo cành đa trước nhà và sự lý giải đó không đi ngoài truyền thuyết
Phật giáo. Cây nêu trở thành biểu tượng của sự đấu tranh giữa cái thiện và ác,
giữa thiên thần và quỷ dữ, nhằm bảo vệ cuộc sống bình yên cho con người. Ngày
Tết thần linh về trời, con người cần có những "bửu bối" của thần nhằm
đề phòng cảnh giác, chống lại sự xâm nhập của ác quỷ.
Cây nêu trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam có đặc điểm khá đa dạng tùy thuộc địa phương, phong tục,
dân tộc, giai cấp xã hội v.v. Có cây nêu mang tính nguyên sơ, không gắn liền
với lễ hội mà hình thức cổ xưa nhất còn thấy ở cộng đồng người nông dân, với
tục dùng cành tre dài cắm trên ruộng sau khi gặt. Khi thấy dấu hiệu này, người
ta biết là chủ ruộng giữ lại mầm lúa cho mùa năm sau, không thể tuỳ tiện thả
trâu bò vào ăn. Riêng đối với dân tộc thiểu số, cây nêu loại này xuất hiện ở
những vùng rẫy thuộc sở hữu cá nhân chưa khai hoang. Người chủ rẫy tìm bốn cây
cao to, chặt đứt ngang thân, dựng ở bốn góc rẫy như bốn cái trụ và gọi đó là
cây nêu…
Những cây nêu gắn liền
với các lễ hội như ngày Tết, hội làng, có hình thức cầu kỳ hơn. Cây nêu thường
sử dụng một số loại cây họ tre như tre, bương, lồ ô, có độ cao khoảng 5-6 mét,
chặt sạch các nhánh và lá tre, chỉ để lại trên ngọn tre có nhánh lá. Trên
ngọn cây treo một vòng tròn nhỏ, vòng tròn này buộc nhiều thứ khác nhau (tùy
phong tục địa phương) như: lá phướn, chiếc khánh (chuông gió) để những
khánh đó va đập nhau kêu leng keng trong gió. Chiếc khánh, đồng âm với “khánh”
có nghĩa là “phúc”: năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình…
Trong những ngày Tết cổ
truyền, vào buổi tối trên cây nêu có nơi còn treo một đèn lồng nhằm chỉ đường
cho tổ tiên biết đường về ăn Tết với con cháu…
Cây nêu được dựng vào
ngày 23 tháng Chạp âm lịch, là ngày Táo quân về trời, với quan niệm rằng từ
ngày 23 cho tới đêm giao thừa, vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này
lẻn về quấy nhiễu. Ngày dựng cây nêu gọi là thượng
nêu, và ngày 7 tháng giêng âm lịch, làm lễ hạ nêu.
Ngày xưa cây nêu được
dựng với ý nghĩa trừ ma quỷ, nhưng ý nghĩa thực của cây nêu trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam trải rộng hơn. Theo thời gian, cùng với sự phong phú của các
lễ vật treo trên ngọn cây, cây nêu được coi là cây vũ trụ nối liền đất với
trời, do tín ngưỡng thờ thần mặt trời của các dân tộc cổ sơ, hàm chứa ý thức về
lãnh thổ của người Việt Nam. Dựng nêu ngày Tết bao gồm trong nó cả các dụng ý
để trừ ma, quỷ, thờ phụng thần linh và vong hồn tổ tiên, tảo trừ những điều xấu
xa của năm cũ. Trong xã hội thị tộc, chiếm hữu nô lệ thì cây nêu biểu trưng cho
một cộng đồng tộc người, khẳng định địa vực cư trú của cộng đồng đó. Trong các
lễ hội, cây nêu là tiêu điểm tập trung, cố kết của tâm thức cộng đồng. Ðối với
người nông dân, nông lịch luôn gắn bó với cuộc sống, định hình thời vụ sản xuất
và sinh hoạt, lễ hội. Thời điểm cuối năm là lúc nông nhàn, chuẩn bị bước vào
các hoạt động vui chơi. Khi cây nêu được dựng lên, tất cả mọi hoạt động khác
đều dừng lại. Nó tạo nên thế cân bằng tuyệt đối trong sự vận hành thay đổi giữa
năm cũ và năm mới. Con người yên tâm vui chơi, cả cộng đồng sinh hoạt vui vẻ,
quên đi những vất vả, nhọc nhằn của năm cũ.
Ngày xưa, cây nêu là biểu
tượng cho sự uy quyền, nhà nào có quyền thế nhất là nhà đó cây nêu cao nhất.
Gần đây, phong tục trồng cây nêu ngày Tết đã dần mất đi trong cộng đồng người
Việt Nam thời hiện đại, và được thay thế với tục chơi cành hoa đào, hoa mai
ngày Tết. Cây nêu chỉ còn bắt gặp tại các chùa, đình, một số vùng quê. Hiện
nay, những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc dần dần được phục hồi,
trong những năm gần đây cây nêu được dựng lên tại các chùa, đình, khu du lịch,
các trung tâm văn hóa, công ty… thể hiện chủ
quyền của nền văn hóa
truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam mãi mãi không bao giờ mất. Đặc biệt,
cây nêu còn được coi là cây vũ trụ - nối liền Đất với Trời. Tán tròn bằng giấy
đỏ tượng trưng cho Mặt Trời và ngọn nêu là nơi chim thần (sứ giả của Mặt Trời)
đậu. Cuối năm trồng cây nêu để đầu năm ngọn nêu vươn lên cao đón ánh nắng xuân,
sức sống xuân, để cầu cho mọi người mãi mãi một mùa xuân…
Cây nêu của dân tộc Việt
Nam còn mang triết lý âm dương, được biết qua hai chữ Càn (Trời) và Khôn (Đất)
nằm trong hình ảnh cái nón và cây gậy của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Nó
bao hàm sự thống nhất và tương trợ giữa Âm và Dương hay sự không tách rời giữa
Động và Tĩnh…
NNC Trí Bửu, trước thêm năm mới Xuân Giáp Ngọ -
2014